Dịch Thơ Việt ra… Thơ Ta





Lâu nay chúng ta thường đọc những tác phẩm văn học nước ngoài hay những sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm của người xưa được dịch ra chữ Quốc ngữ.

Một năm trở lại đây, nhà thơ Đỗ Hoàng làm người dịch thơ Việt ra thơ Việt, gây sự chú ý, ngỡ ngàng trong làng văn chương nước nhà. Đỗ Hoàng không phải dịch thơ Việt ra thơ Việt để giải trí, mà anh có chủ đích hẳn hoi. 



'Phiên dịch viên' chữ nghĩa, tâm hồn 

Hồi trước, khi chưa có blog cá nhân, Đỗ Hoàng đem phô - tô mang phân phát cho bạn bè cùng đọc. Khi có blog, anh tải lên đó tất cả những bài thơ đã dịch của mình. 
Thật lạ, từ khi những bài thơ đó được tải lên blog, số người truy cập tăng nhanh, số người comment nhiều, và tạo thành hai luồng ý kiến trái ngược nhau: đồng tình và phản đối.
Thậm chí có nhiều ý kiến mang tính chất “khủng bố”, làm cho nhà thơ Đỗ Hoàng phải rút lui khỏi blog một thời gian. 

Tôi và Đỗ Hoàng cùng quê. Anh lớn hơn tôi chừng chục tuổi. Tôi quen Đỗ Hoàng từ hồi anh ra học Trường viết văn Nguyễn Du, năm 1982. Anh viết văn, làm thơ và dịch cả thơ chữ Hán. 

Tập thơ Tuý thì ca xuất bản năm 2001, anh dịch thơ Đường có những câu rất hay, ví dụ: “Rửa gươm trong sóng bể dâu/ Ngựa ăn cỏ máu tận đầu Thiên Sơn” (Nguyên văn: Tẩy binh điều chi thượng hải ba/ Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo - Bài Chiến thành Nam của Lý Bạch). 

Vào một buổi chiều cách đây hơn năm, tôi với Đỗ Hoàng ngồi nhâm nhi mấy cốc bia bên gốc sấu cổ, khi đã ngà ngà, anh liền đọc thơ. Lúc đầu tôi tưởng anh đọc thơ của anh sáng tác, nhưng không phải, mà đó là thơ người khác được anh dịch ra lục bát. Tôi cứ tưởng anh làm cho vui. 

Bẵng đi một thời gian, khi làng blogger xôn xao chuyện Đỗ Hoàng dịch thơ Việt ra thơ Việt tôi mới tìm đọc, thì đã bị anh xóa hết. Tôi liền “truy lùng” tóm gọn anh và lấy về được một tập bản thảo thơ dịch hơn 20 bài. 

Đỗ Hoàng nói nhỏ: “Đọc xong nhớ gửi trả mình nhé, đừng phát tán nguy hiểm lắm”. Tôi nghĩ, chắc Đỗ Hoàng còn sợ những tin nhắn trên blog, nên lo xa như vậy. Tôi hứa chỉ dùng một vài dẫn chứng để viết bài, sau đó trả anh ngay, anh mới yên tâm bắt tay tôi phóng xe máy đi nhà in. 

Đọc cả tập thơ dịch Đỗ Hoàng đưa, tôi thấy những nhà thơ được anh dịch nhiều nhất là Hoàng Vũ Thuật, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tùng… 

Một lần, hỏi chuyện Đỗ Hoàng, tôi được biết anh dịch thơ Việt ra thơ Việt bởi sự “phản ứng” với một số cây bút sáng tác thơ cách tân, làm thơ bí hiểm, người đọc không hiểu nổi. 

Anh và nhà thơ Vương Trọng - hai nhà thơ xuất thân từ thầy dạy Toán là hai đại biểu bảo vệ cách làm thơ truyền thống, bởi “thơ trọng ở tình cảm, đổi mới nội dung mới đáng quý, còn hình thức thơ như chúng ta từng có đã đủ để sáng tác được nhiều bài thơ hay”. 

Không những thế, Đỗ Hoàng còn viện dẫn cả Lục Du bên Tàu: “Công phu thâm xứ thi bình dị” (Thơ hay nhất là thơ phải bình dị). Thơ ca làm khó hiểu, rắc rối là hạ thấp thơ, anh không thể nào chịu nổi. 

Cơn “dị ứng” nổi lên, anh lôi ngay bài thơ Mãi viên trà của người bạn thân thiết nhất là Hoàng Vũ Thuật ra dịch. Sáng tạo lại trong cơn xúc động bởi sự ức chế, nên Đỗ Hoàng dịch rất nhanh.

Dịch xong, đọc lại thấy hay, bài thơ như được “nâng cấp”, Đỗ Hoàng liền mang sang nhà nhà thơ Lê Đình Cánh - môt người thơ sành lục bát - đọc cho ông nghe.

Lê Đình Cánh “tiếp sức” cho Đỗ Hoàng bởi những lời khen ngất trời. Đặc biệt ông thích hai câu cuối:

Kết vào nhau tựa thêu thùa

Linh hồn tôi với ngải bùa cỏ cây

(nguyên bản: kết dính vào nhau/ linh hồn tôi/ dính vào cành lá).

Không những thế, ông còn khuyến khích Đỗ Hoàng dịch tiếp và gửi in báo. 

Được đà, trong một tháng, anh dịch được hơn chục bài. Dịch được bài nào anh xuất bản mồm cho các bạn thơ, bạn rượu của mình nghe. Nhiều người khen ngợi. Thế là anh tung lên mạng.

Nhà thơ Tùng Bách ở tận Vũng Tàu khen trực tiếp trên blog bằng mấy câu lục bát: 

Hoan hô bác Đỗ thật cừ

Dịch Văn Cầm Hải cứ như uống trà

Nguyên bản em đọc không ra

Xem qua bản dịch thế mà lại hay. 

Tôi đã đọc hết những bài thơ của Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tùng, Trịnh Thanh Sơn… do Đỗ Hoàng dịch. Phải công nhận anh dịch lục bát rất khá. Không có một câu thơ nào lỗi vần. Ý tứ lại chuẩn. 

Bài thơ Giấc mơ đi qua của Vi Thùy Linh được anh dịch thành lục bát, nói như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là “hay một cách bất ngờ”. 

Tôi xin trích một khổ thứ hai trong bài thơ đó, nguyên bản: 

Đêm qua rơi dải khăn mây
Gió đợi chờ nhau thơ thác
Này đọt yêu thương
Lớn trên tay những mầm khao khát 

Bản dịch:

Mây đêm buông xuống bất ngờ
Thơ reo tiếng nhạc, gió chờ đợi nhau
Tình yêu có phép nhiệm màu
Dồn khao khát nhớ lên đầu ngón tay.



Chuyện chưa có hồi kết

Không giống như dịch thơ chữ Hán ra thơ Việt, Đỗ Hoàng dịch rất sát nghĩa, song dịch thơ Việt ra thơ Việt, có những chỗ anh “phải thêm lời, ý tứ vào bài thơ mới rõ nghĩa, vì bản chính tắc tị”. 

Vì vậy anh bảo nhiều khi phải “nghĩ nát óc” để đọc thơ, luận nghĩa. Đọc để hiểu được thơ của các nhà thơ “đổi mới” đã khó, dịch nó lại càng khó hơn. Khó bởi phải dịch làm sao thật sát, thật hay để người có bài thơ được dịch phải chịu, người đọc, người nghe phải khen. 

Thành công cũng có, song thất bại cũng không ít. Nguyên nhân thất bại là do không hiểu nổi bài thơ của tác giả đó nói gì, hoặc phải thêm ý của mình vào quá liều lượng. 

Đỗ Hoàng đơn cử một ví dụ nhỏ về tiêu đề một bài thơ của Hoàng Vũ Thuật, có tên Mãi viên trà. Khi mới đọc, Đỗ Hoàng không thể hiểu nổi. Sau này, có dịp vào Đồng Hới, Quảng Bình, anh mới thấy có cái quán tên Mãi Viên Trà mới vỡ lẽ. Thế mà khi dịch, chữ “Mãi Viên Trà” anh không thể nào dịch được, đành để nguyên.

Một lần gặp nhà thơ Hoàng Vũ Thuật ở Đồng Hới, tôi cho anh xem bài thơ Mãi Viên Trà do Đỗ Hoàng dịch. Hoàng Vũ Thuật đọc rất chăm chú. Đọc xong, ngẩng lên anh bảo: “Hoàng dịch rất chuẩn, lục bát có thần”. Nhưng sau đó mặt anh lặng buồn, nhìn ra cửa biển nói tiếp: “Đỗ Hoàng cũ lắm rồi. Bài thơ nào cũng dịch ra lục bát theo âm điệu của thế kỷ 18 thì còn gọi gì là thơ đời nay nữa…”. 

Tôi kể lại chuyện Hoàng Vũ Thuật đã nói cho Đỗ Hoàng nghe. Đỗ Hoàng “xù lông” nói cái câu đã từng nói rất nhiều lần, ở rất nhiều nơi về thơ lục bát: “Thơ lục bát là quốc hồn, quốc tuý. Truyện Kiều hay và mới đến muôn đời. Hoàng Vũ Thuật ngông cuồng!”. 

Tôi không dám bình luận gì thêm bởi Đỗ Hoàng đang trong cơn “cuồng nộ”. Chuyện người dịch thơ Việt ra thơ Việt đến nay chưa có hồi kết. Bởi càng ngày càng có nhiều người làm thơ theo lối mới, nghĩa là “không làm thơ theo lối tranh cảnh” như Phạm Quỳnh đã nói, mà thơ của họ đa chiều, lấy sự ám ảnh và nhịp tâm hồn làm trọng. Do đó, người dịch thơ còn phải “lao động” dài dài, và cần phải lao động có năng suất mới đạt được hiệu quả mong muốn. 

Rất may, hiện nay Đỗ Hoàng đang làm biên tập ở Tạp chí Nhà Văn, nên có điều kiện thuận lợi hơn. Và tôi nghĩ, không chừng, theo gót anh, có nhiều nhà thơ khác cũng đi dịch thơ Việt ra thơ Việt trong tương lai. Chuyện này dễ gây nên một “cú sốc” trong làng thơ Việt. 

Biết đâu, từ đó nảy sinh ra một cuộc tranh luận mang độ nóng cao, tạo đà cho cuộc cách mạng thơ trong giai đoạn mới? Khi đó, tên tuổi Đỗ Hoàng sẽ đi vào lịch sử văn học!

Tôi không muốn bình luận gì về chuyện dịch thơ này, vì người dịch là bạn tôi và người được/ bị dịch cũng là bạn/ đồng nghiệp của tôi. Tôi rất muốn đứng về một phía. Nhớ câu nói xưa “dĩ hoà vi quý”, nên chỉ xin phép được chép ra một bài thơ mà Đỗ Hoàng đã dịch để bạn đọc cùng xem xét, suy ngẫm. 

Theo: Trần Quang Đạo



Bản gốc:
Tôi nằm dưới bóng râm thời trang
Kinh nghiệm xanh rì rào thành phố
Đất nước tôi
Những vòng môi mặn đỏ phù sa
Ngọn tầm vông chuyển giao đất trời
Tư duy tâm 
Đổi mới
Giấc chiêm bao lịch sử nóng ran
Công trường
Và chiếc nôi đầy đặn ngữ pháp khóc cười
Văn hiến
Đi tìm chồng cho mẹ Âu Cơ
Mà mất biết bao chùm điện tử
Không hoá giải
Hình quê hương trong khói hát mồ hôi…
Văn Cầm Hải 


Bản dịch:
Tôi nằm dưới bóng thời trang
Ôi, kinh nghiệm xanh râm ran phố phường 
Đất nước tôi mấy đoạn trường
Phù sa mặn đỏ thêm hường vòng môi! 
Ngọn tầm vông chuyển đất trời
Tư duy đổi mới hồn người tâm can! 
Chiêm bao lịch sử nóng ran
Công trường sôi động mở mang xứ nghèo 
Nôi đầy cười khóc, lời yêu
Nền văn hiến để dệt thêu bóng cờ 
Tìm chồng cho mẹ Âu Cơ
Bao chùm điện tử bất ngờ mất đi! 
Muốn hoá giải, phỏng được gì
Mồ côi khúc hát cũng vì hình quê!
Đỗ Hoàng


Nguồn: lucbat.com

(Còn tiếp)
VÌ SAO TÔI DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT

Tôi không phải là nhà phê bình chuyên nghiệp, nên thấy thơ thích là đọc, không thích thì thôi. Hơn nữa, tôi là người làm thơ, mà thơ thì trăm người trăm vẻ, người thích kiểu này, người thích kiểu kia, không ai giống ai. Mình chê thơ người ta thì khác nào chị hàng cá nguýt chị hàng thịt. Vậy nên khi các kiểu "thơ " đua nhau ra đời, thậm chí có tác giả thơ được lăng xê này nọ hoặc đoạt những giải thưởng do nhiều tổ chức trao tặng, tôi vẫn mảy may làm im.
Nhưng rồi càng ngày càng thấy nhiều người sa đà vào kiểu viết tắc tỵ hoặc dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, ba voi không ngọt bát xáo ( tức là đa ngôn) thơ không vần không điệu,,. không giống Việt cũng chẳng ra Tàu, ra Tây. Thơ họ giống như người nước ngoài học 100 tiết tiếng Việt làm thơ Việt; cũng như chúng ta học 100 tiết tiếng Anh làm thơ tiếng Anh! Ấy vậy mà cũng có người hết lời ca ngợi xem đó là cách tân, đổi mới thơ Việt. Thật ra khi đọc kỹ, thì thấy những người viết ấy chẳng có gì là cách tân, đổi mới, họ chỉ khuấy nước đục lên để không ai biết cái ao thơ của họ quá cạn mà tthôi. Họ càng làm tắc tỵ để càng nhiều người không hiểu, để họ càng " thiên tài"!
Lại thêm nhiều người viết bài ca ngợi. Tôi thấy không đúng. Người không hiểu thơ ca ngợi đã đành, người hiểu thơ cũng vì thế này, thế nọ mà ca ngợi là không được. Cái hại cuối cùng không phải là người làm thơ đích thực mà hại cho người đọc. Người đọc hoang mang không biết định hướng thế nào, đâu là thật, đâu là giả, vàng thau lẫn lộn! Họ hoang mang vì họ thấy những nhà phê bình có tên tuổi khen, những nhà thơ có thương hiệu khen. Như vậy thật là bất công!
Tôi thấy tôi phải làm một việc gì đó, họa may cung cấp một thông tin mà tôi cho là chính xác cho người đọc về cái gọi là "Thơ" đang ngự trị văn đàn. Tôi chẳng có diễn đàn nào, thôi chỉ có cách duy nhất là dịch nó ra thơ Việt, vừa cho mình hiểu, biết đâu có người nào đó hiểu cũng được, thế là mừng. Rồi đi đọc chui, xuất bản miệng.

ĐỖ HOÀNG


Nguồn: Lê Thiếu Nhơn:
Xin giới thiệu thêm một số bài "dịch" của Đỗ Hoàng:


Lê Văn Ngăn
Nguyên bản 
Ở Huế
Những ngày tôi còn ở Huế
lưu vực sông Hương thường vọng về tiếng nước gọi tôi thức dậy sớm
Dưới nền trời chưa tắt những vì sao các con đường nằm lặng im đợi bước chân người
Và người hiện ra từ những ánh đèn quá khứ
Người đi về phía ngày mai
Người qua đời đã lâu nhưng còn sống giữa lòng người
Bên người và những câu chuyện tôi biết quê hương tôi có tiếng nói riêng tiếng nói của một xứ sở lớn lên từ những vết thương và niềm vinh dự
Dường như trong đôi mắt em dịu dàng còn thấp thoàng những bóng hình những vết thương và niềm vinh dự
Bên người và những câu chuyện tôi biết quê hương tôi còn mở những ngả đường hướng ra thế giới hướng vào mỗi tâm hồn người
Từ đó
Tôi nhận ra sự giàu có không chỉ vì đồng tiến
Rồi sẽ đến ngày tôi không còn ở Huế
Rồi Sông Hương sẽ vắng một người lắng nghe tiếng nước gọi mình.
( Bài in trên Tạp chí Thơ số 2 – 2008)

Bản dịch
Ở Huế
Những ngày ở Huế còn tôi.
Sông Hương nguồn cội vọng lời yêu thương.
Ngàn sao đang vượt thái dương.
Đợi chờ người bước lên đường vững tin.
Chớp lòa quá khứ hiện in,
Người đi về nẻo lưu hình mốt mai.
Người khuát dù đã khuất rồi.
Như còn sống giữa tình người mến yêu.
Bên người huyền thoại thật nhiều
Quê hương sáng sáng, chiều chiều thiêng liêng.
Giọng quê kiêu hãnh ưu phiền
Dường như có ánh mắt tiên dịu dàng
Bóng hình vô ảnh mênh mang
Nỗi đau dịu lại rỡ ràng niềm thương
Có người dẫn lối phi thường.
Nhìn ra bốn cõi, mở đường tâm linh.
Hướng vào sâu thẳm con tim,
Giàu sang đâu chỉ tiền in cõi còm.
Ngày tôi ở Huế không còn
Sông Hương vắng tiếng người con gọi mình!





Phan Thị Vàng Anh
Nguyên bản
Ngày thư ba ở Hội An
Trăng sáng
Ngư dân ở nhà chơi với vợ
đợi đêm còn ra với phong ba
Trăng sáng
ước bạc, lưới không sao giấu mắt
Cá băng tung tẩy từng đàn
Ngộp thở
Phố cổ oi, đèn lồng vàng và đỏ
Người đi từng đang đổ về phía bờ sông
Sực nhở ra thắt cả lòng
Lúc đi cửa đã không bật đèn.
26-3-2004
(Theo Tập thơ Gửi VB - Phan Thị Vàng Anh)

Bản dịch
Ngày thứ ba ở Hội An
Thường khi trăng đầy sáng
Ngư dân vui vợ nhà.
Đợi khi đêm đen đến
Còn ra với phong ba!
Trong những đêm trăng sáng
Nước ánh bạc, ánh vàng,
Soi rõ cả mắt lưới
Cá tung tăng từng đàn.
Phố cổ oi, ngộp thở.
Đỏ vàng sắc đèn lồng,
Người đi đông đông quá,
Đổ về phía bờ sông.
Sực nhớ thắt cả lòng.
Cửa khép, đèn không bật!
Hà Nội ngày 20 -1 - 2008



Nguyễn Quang Thiều
Nguyên bản
Trong quán rượu rắn
Những con rắn được thủy táng trong rượu
Linh hồn nó bò qua miệng bình nằm cuộn khoanh đáy chén
Bò nữa đi, bò nữa đi qua đôi môi bạc trắng
Có kẻ say gào lên những khúc bụi bờ

Một chóp mũ và một đôi giày vải
Mắt ngơ ngơ loang mãi đến chân trời
Nhóm u uất trong những vòm tháp cổ
Người suốt đời lảm nhảm với hư vô

Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Thơ âm âm, thơ thon thót giật mình
Kinh hãi chảy điên cuồng như lưỡi liếm
Ngửa mặt cười trong tiếng khóc mộng du

Bò nữa đi, bò nữa đi, hỡi những linh hồn rắn
Nọc độc từng tia phun chói trong bình
Người không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên lên những vệt rắn bò

Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
Rừng mang mang gọi những khúc thu vàng
Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Có người say hát lên bằng nọc độc của mình.
( Trong tập Thi Tửu - NXB Hội Nhà văn quý IV năm 2007)

Bản dịch:
Trong quán rượu rắn
Lũ rắn độc bị đem tửu táng
Hồn bò quanh đáy chén, miệng bình
Bò nữa đi qua môi bạc trắng
Kẻ say gào giọng rượu thất kinh!

Áo quần, mũ, tất giày trút bỏ
Mắt ngu ngơ hoang mạc chân trời
Nỗi u uất ứ vòm tháp cũ
Với hư vô lảm nhảm suốt đời!

Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Hồn rên lên, tim thon thót nhói lòng
Kinh hoàng chảy điên cuồng như lửa liếm
Ngửa mặt cười khóc mộng du không!

Bò nữa đi! Hỡi những linh hồn chêt!
Nọc độc phun bầm cả đáy vò
Không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên những vệt rắn bò!

Đêm dài rộng chôn vùi trong quán nhỏ.
Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng.
Rượu câm lặng chở bao linh hồn rắn.
Hát bằng nọc độc mình, kẻ xỉn hú rất hăng!
Hà Nội ngày 13 - 1 – 2008



Vi Thùy Linh
Nguyên bản
Giấc mơ đi qua
Em gặp mình
Màu xanh mơ ước
Sao trời phiêu linh
Vòm đêm vỡ sáng
Vầng trăng mê mải tròn đầy...

Đêm rơi qua dải khăn mây
Gió đợi chờ nhau thơ thác
Nảy đọt yêu thương
Lớn trên tay những mầm khao khát
Khẻ về sắc cỏ thanh miên...

Và bình minh thở phía trời xa
Ngày lên! Giấc mơ tung cánh
Không gian mở bao đường tuyệt đích
Mùa về thức đợi riêng em
(Theo Đặc Trưng – Thơ)

Bản dịch:

Cách 1:
Giấc mơ đi qua
Em đã gặp lại mình
Trong giấc mơ có thực
Màu xanh dâng mộng ước
Giữa sao trời phiêu linh
Có vòm đêm lóa sáng
Có vầng trăng tròn in...

Đêm rơi dải khăn mây
Gió đợi chờ thơ nhạc
Yêu đương đang nảy đọt
Trên tay mầm khát khao
Về sắc cỏ xanh màu...

Trời xa bình minh rạng
Ngày lên! Mơ tung cánh
Trời mở đường tuyệt vời

Mùa thức đợi em thôi!
Hà Nội ngày 13 - 1 - 2008 

Cách 2:

Giấc mơ đi qua
Em như gặp lại chính mình
Bao thanh âm bỗng hiện thành giấc mơ
Màu xanh mộng ước đợi chờ
Sao trời mờ nhạt bên bờ phiêu linh
Vòm đêm vỡ sáng thình lình
Vầng trăng tròn trịa dáng hình ngày xưa!

Mây đêm buông xuống bất ngờ.
Thơ reo tiếng nhạc, gió chờ đợi nhau.
Tình yêu như phép nhiệm màu
Dồn khao khát nhớ lên đầu ngón tay.

Cỏ xanh, sắc liễu biếc gầy
Bình minh tỏa rạng cho đầy trời xa
Giấc mơ tung cánh tiên nga
Không gian rộng mở đường ra truyệt vời.

Mùa về thức đợi em thôi!
Hà Nội ngày 10 - 9 - 2007


Nguồn: Lê Thiếu Nhơn


Commentaires

Posts les plus consultés de ce blog

Đại hạ giá!

Top 10 hacker “khét tiếng” nhất mọi thời đại